Agat (agate)
Màu sắc
|
Nhiều màu, thường ở dạng dải xen kẽ
|
Độ trong suốt
|
Thường bán trong đến đục
|
Màu sắc vết vạch
|
Trắng
|
Chiết suất
|
1,530 – 1,540
|
Độ cứng
|
6,5-7
|
Lưỡng chiết suất
|
Khoảng 0,004
|
Tỷ trọng
|
2,58-2,64
|
Độ tán sắc
|
Không
|
Tính cát khai
|
Không
|
Tính đa sắc
|
Không
|
Vết vỡ
|
Không bằng phẳng
|
Tính phát quang
|
Thay đổi theo màu
|
Thành phần hoá học
|
SiO2, dioxit silic
|
Phổ hấp thụ
|
Màu lục do nhuộm có vạch tại 700, 655, 634
|
Hệ tinh thể
|
Hệ ba phương, thường ở dạng tập hợp vi tinh
|
|
|
Tên agat được xuất phát từ tên sông Achates vùng Sicily (Italia). Agat là tên chung chỉ các loại canxedon có cấu tạo màu dạng dải và sắp xếp đồng tâm giống dạng vỏ sò, và đôi khi chúng chứa các hợp phần của opal. Trong đa số trường hợp ta thường thấy các vi tinh thể của thạch anh mọc vuông góc với các dải màu. Các dải màu có thể là cùng một màu hoặc nhiều màu xen kẽ nhau.
Agat thường được thành tạo ở dạng cục hoặc hạnh nhân với các kích thước khác nhau từ vài cm đường kính tới vài mét. Các dải màu được tạo thành do sự kết tinh xen kẽ nhịp nhàng của các lớp oxit silic có màu khác nhau từ ngoài vào trong. Phần nhân bên trong có thể được lấp kín hoặc rỗng, trong trường hợp rỗng chúng sẽ thuận lợi cho việc kết tinh các tinh thể thạch anh có màu khác nhau: thạch anh pha lê, ametit, citrin, thạch anh khói. Đôi khi một số loại khoáng vật khác cũng có thể mọc xen kẽ như ankerit, barit, calcit, gơtit, hematit, siderit hoặc zeolit.
Nguồn gốc và phân bố: Nguồn agat quan trọng nhất trong quá khứ phải kể đến vùng Idar Oberstein (Đức), tuy nhiên hiện nay chúng đã bị khai thác cạn kiệt. Agat ở đây thường có kích thước vài chục centimet đường kính và có cấu trúc dạng dải với các màu khác nhau. Hiện nay agat được khai thác nhiều ở Brazil, Urugoay, Australia, Trung Quốc, Ấn Độ, Madagasca, Mexico, Mông Cổ, Namibia và Montana (Hoa Kỳ).